Lăng mộ Bà Đoàn Quý Phi

Đoàn Quý Phi tên thật là Đoàn Thị Ngọc, sinh năm Tân Sửu 1601, là con của ông Đoàn Công Nhạn, một Hào trưởng ở làng Chiêm Sơn và bà Võ Thị Ngọc Thành. Gia đình ông chuyên nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa ở làng Chiêm Sơn, huyện Diên Phước, dinh Quảng Nam bên bờ sông Thu Bồn.

Tuy còn rất trẻ nhưng Đoàn Quý Phi đã là thợ tàm tang lành nghề. Câu chuyện tình của Bà với một vị Chúa Nguyễn là giai thoại nên thơ, hàng bao năm nay đi vào truyền thuyết dân gian địa phương. Sách Đại Nam liệt truyện tiền biên triều Nguyễn chép: “Năm mười lăm tuổi, bà hái dâu bên bãi, trông trăng mà hát. Bấy giờ Huy Tông hoàng đế (Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên) đi chơi Quảng Nam, công tử Phước Lan đi theo hộ giá. Đêm đáp thuyền chơi trăng, đỗ thuyền ở Điện Châu (bây giờ là An Phú Tây) câu cá, nghe tiếng hát lấy làm lạ, sai người đến hỏi, biết là con gái họ Đoàn, cho tiến cung hầu chúa ở tiềm để, được yêu chiều lắm”.

Lăng mộ Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc,Chiêm Sơn, Duy Trinh

Truyền thuyết dân gian lại kể rằng: Vào đêm trăng đẹp năm 1615, Chúa Sãi tuần du Quảng Nam, đã cùng công tử thứ hai lúc đó khoảng 15 tuổi là Nguyễn Phước Lan dạo thuyền trên sông Thu Bồn. Khi thuyền ngược dòng sông đến địa phận làng Chiêm Sơn, huyện Diên Phước, giữa đêm thanh vắng bỗng nghe có tiếng hát của một cô gái từ biền dâu vọng lại theo làn gió.

Cô gái hát rằng:

Tai nghe Chúa ngự thuyền rồng

Thiếp thương phận thiếp má hồng nắng mưa.

Một lát sau, giọng hát đó lại cất lên:

Thuyền rồng Chúa ngự nơi đâu

Thiếp thương phận thiếp hái dâu một mình…

Giọng hát và lời ca của cô thôn nữ trong đêm thanh vắng đã làm rung động tâm hồn của chàng công tử Phước Lan. Được phép của phụ vương, công tử cho thuyền rồng men theo triền sông đi tìm tiếng hát. Họ gặp nhau và cô thôn nữ của Hào trưởng Đoàn Công Nhạn được chọn tiến cung.

Công tử Nguyễn Phước Lan (1601-1648) và cô thôn nữ họ Đoàn (1601-1661) đã bén duyên nhau. Năm 1617, họ kết duyên và sống tại dinh trấn Thanh Chiêm. Từ năm 1613, Nguyễn Phước Lan được cha trao quyền Trấn thủ Quảng Nam, đến năm 1635 thì kế nghiệp cha trở thành Thượng vương. Song hành với chồng, bà đã ra sức hộ trì cơ nghiệp ban đầu của chúa Nguyễn bằng việc chăm lo đời sống của dân. Bà bỏ tiền của tiếp tục chiêu dân lập ấp, giúp dân khai khẩn các diện tích hoang hóa, khuyến khích nhân dân chăm chỉ làm ăn, chú trọng phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Nghề tàm tang phát triển trước hết ở Duy Xuyên, sau đó đến các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa… đóng góp vào sự hưng thịnh của đô thị – thương cảng Hội An trở thành trung tâm trung chuyển mậu dịch quốc tế trên con đường tơ lụa trên biểnởthế kỷ 17-19 nối liền Á – Âu. Trong thời gian theo chồng về kinh đô Phú Xuân, tuy là Quý Phi nhưng bà cũng hết lòng khuyến khích nhân dân Phú Xuân và các huyện xung quanh phủ chúa phát triển nghề tàm tang.

Bà Đoàn Quý Phi sinh hạ được ba công tử và một công chúa: Nguyễn Phước Võ, Nguyễn Phước Tần, Nguyễn Phước Quỳnh và Nguyễn Phước Ngọc Dung. Trong những người con của bà, người xuất sắc nhất là Nguyễn Phước Tần đã kế tục cơ nghiệp nhà Chúa Nguyễn, góp phần to lớn trong việc kiến thiết xứ Đàng Trong. Dũng lễ hầu Nguyễn Phước Tần làm Trấn thủ dinh Quảng Nam từ năm 1635 đến năm 1648. Năm 1648 khi cha là Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan qua đời, Nguyễn Phước Tần lên ngôi chúa, được sử sách gọi là Chúa Hiền.

Bà Đoàn Quý Phi mất ngày 17 tháng 5 năm Tân Sửu, tức ngày 12/7/1661, hưởng thọ 60 tuổi. Thể theo nguyện vọng lúc sinh thời, Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần đã đưa mẫu thân về an giấc nghìn thu tại quê cha đất tổ Duy Xuyên. Lăng mộ bà tọa lạc ở gò Cốc Hùng, thuộc làng Chiêm Sơn, cách lăng mộ nhạc mẫu hoàng hậu Nguyễn Thị Giai (tức Mạc Thị Giai) khoảng hơn 500mét; cách lăng mộ của con gái – công chúa Nguyễn Phước Ngọc Dung khoảng 700mét.

Sau khi bà Đoàn Quý Phi qua đời, 83 năm sau, vào năm 1744, khi Đàng Ngoài Chúa Trịnh xưng vương thì Đàng Trong Nguyễn Phước Khoát cũng xưng Võ Vương; tự coi Đàng Trong như một nước độc lập. Bà được Chúa truy hiệu là Trinh thục từ tĩnh Huệ phi, về sau thêm hai chữ Mẫn duệ thành Trinh thục từ tĩnh Mẫn duệ Huệ kính Hiếu Chiêu hoàng hậu; được khắc tên lên kim sách (sách bằng vàng) của hoàng tộc; được thờ phụng với Hiếu Chiêu hoàng đế (tức Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan) vào gian thứ nhất bên phải Thái miếu ở Huế. 

Năm 1806, vua Gia Long đặt tên cho lăng mộ của Hiếu Chiêu hoàng hậu là lăng Vĩnh Diên và cho trùng tu lần thứ nhất. Năm 1814, trùng tu lần thứ hai. Năm 1824, vua Minh Mạng giao tổng đốc Quảng Nam xây dựng giữa lăng Vĩnh Diên và lăng Vĩnh Diễn một ngôi chùa để thờ cúng các hoàng hậu, hoàng tử, công chúa gọi là chùa Vĩnh An (dân gian quen gọi Chùa Vua hay Chùa Ngự) và cắt binh coi giữ hai lăng đến 50 người. 

Lăng mộ bà Đoàn Quý Phi – Hiếu Chiêu hoàng hậu tọa lạc tại gò Cốc Hùng trên mảnh đất diện tích rộng 2.862m2. Chính diện lăng xây về hướng Đông Nam giáp với bàu Kho, phía sau nối với nổng Cụp. Trước lăng còn có dòng kênh rộng sâu, vào dịp cúng giỗ Bà, vua chúa, quan lại thường đến bằng đường thủy này. Đây là nơi hội đủ các yếu tố về mặt phong thủy vừa kỳ bí, thâm nghiêm vừa có khoảng không gian khoáng đạt của long mạch. 

Lăng mộ Bà được xây theo mô thức cung đình, ở giữa là phần mộ chí hình khối chữ nhật, các họa tiết trang trí đơn giản. Chung quanh khu lăng có hai lớp bảo thành bảo vệ; hai cổng của hai thành, ba bình phong, một mộ chí ở giữa. Bảo thành ngoại xây bằng gạch, đá bazan có kích thước lớn nhỏ không đều, lớp vữa liên kết dày (vữa truyền thống) gồm nhựa cây bời lời, mật đường, nhựa dây cơm nguội và vôi. Mũ thành xây gạch trên đỉnh tô vôi, hai trụ cổng vào hướng Đông Nam, trụ cao 2,60m, có cạnh 1,80m, cổng rộng 3,53m. Bảo thành ngoại cao 2,60m, bôn góc có bốn trụ góc. Bình phong tiền cao 2,70m, rộng 1,54m, dài 4,50m, chân xây bằng đá theo dạng chân quỳ, phần trên xây gạch tô vôi, hai mặt trước sau đắp nổi và tô vẽ hình long mã, diềm bình phong vẽ hoa cúc nét trắng trên nền đen. Bình phong hậu bảo thành ngoại cao 3,10m, dài 7,60m, dày 1,50m, được xây đá tô vôi, đắp nổi trên nền gờ đá, hai chim phượng, con trống bên trái dang cánh miệng ngậm kiếm, con mái bên trái miệng ngậm cuốn thư, đế xây gạch dạng chân quỳ. Bảo thành nội cao 1,50m, hai trụ cổng vuông mỗi cạnh 1m, cao 1,83m, cổng rộng 2,32m, bốn góc có bốn trụ. Bình phong hậu bảo thành nội dài 4,72m, cao 2,20m, dày 0,85m, đắp nổi cặp rồng vờn trong mây. Trong cùng là phần mộ chí và bàn hương án. Bàn hương án dài 2,34m, rộng 1,18m, cao 0,81m. Mộ chí hình hộp chữ nhật xây gạch cao 3,30 m, đế giật cấp có nhiều gờ. Thân mộ dài 2,70m, rộng1,73m, nóc mộ tô vôi võng giữa dạng thuyền. 

Hằng năm, ngoài ngày giỗ, lăng mộ Hiếu Chiêu hoàng hậu Đoàn Quý Phi được tổ chức tế lễ hai lần vào các dịp Thanh minh và Đông chí. Thời Chúa Nguyễn, chủ tế là Trấn thủ dinh Quảng Nam, từ thời các vua đổi dinh thành tỉnh nên chủ tế là Tổng đốc  Quảng Nam và phụ lễ là Tri phủ Duy Xuyên. Lễ vật được chuẩn bị và mang theo, khi từ kinh, khi từ tỉnh đường. Đoàn quan lại bái yết lăng hoàng hậu, khi còn cách lăng mộ 100mét thì phải xuống kiệu nghiêng lọng và đi bộ trong tiếng nhã nhạc và tiếng chuông, trống uy nghi.

Dưới thời nhà Nguyễn, mỗi lần tuần du Quảng Nam, các chúa và các vua đều cung yết lăng mộ hai hoàng hậu và công chúa Ngọc Dung nhà Nguyễn tại Chiêm Sơn. Để tưởng nhớ công đức của Hiếu Chiêu hoàng hậu, năm thứ 18 đời vua Thành Thái (1905), nhà vua ban chiếu chỉ cho tộc Đoàn làng Chiêm Sơn một ngàn lạng bạc để dựng nhà thờ Hiếu Chiêu hoàng hậu tại thôn Đông Khương, xã Điện Châu  tức Đông Yên Châu, thuộc huyện Điện Bàn và Đông Yên Đông thuộc huyện Duy Xuyên. Hiện nay nhà thờ này nằm trên đất Đông Yên Châu thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn.

Ngày 2/8/2011 Lăng mộ bà Đoàn Quý Phi được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 2368/QĐ/BVHTTDL xếp hạng di tích cấp quốc gia.

Ngày nay, từ ngã ba Nam Phước đi thẳng đến cụp Chiêm Sơn, rẽ trái sang hướng Tây Nam băng qua cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi chừng 1km là đến lăng mộ Bà, rất tiện lợi cho phát huy các hoạt động du lịch. Lăng mộ của Hiếu Chiêu hoàng hậu Đoàn Quí Phi cùng với các lăng mộ của Hiếu Văn hoàng hậu Mạc Thị Giai, công chúa Ngọc Dung, Thống binh thái phó Mạc Cảnh Huống, Tổng trấn Quảng Nam Nguyễn Phúc Kỳ là những lăng mộ của thời các chúa Nguyễn còn lại trên đất Quảng Nam đã may mắn thoát khỏi sự tàn phá của nhà Tây Sơn và sau này là các cuộc chiến tranh, trở thành những di tích lịch sử quí hiếm. 

Hiếu Chiêu hoàng hậu Đoàn Thị Ngọc được nhân dân trong nghề dâu tằm tôn vinh là Bà Chúa tàm tang; không chỉ là biểu tượng của tàm tang xứ Quảng mà còn là biểu tượng của lòng nhân từ trong sáng, đức độ thủy chung, đảm đang, trung hiếu, yêu thương, gắn bó máu thịt với nhân dân. 

Khu di tích Lăng mộ Bà Đoàn Quý Phi sẽ trở thành điểm du lịch của du khách khi đến Mỹ Sơn

 

Similar Posts